[go: up one dir, main page]
More Web Proxy on the site http://driver.im/Bước tới nội dung

Jason Donovan

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Jason Donovan
Donovan biểu diễn ở Here and Now Tour vào năm 2011
Sinh1 tháng 6, 1968 (56 tuổi)
Malvern, Victoria, Úc
Nghề nghiệpDiễn viên, ca sĩ
Năm hoạt động1980–nay
Phối ngẫu
Angela Malloch (cưới 2008)
Con cái3 (2 gái, 1 trai)
Cha mẹTerence Donovan (cha,diễn viên)
Sue Menlove (mẹ, diễn viên, nhà báo)
Sự nghiệp âm nhạc
Thể loạiPop
Nhạc cụgiọng hát, guitar
Năm hoạt động1988–nay
Hãng đĩa
Websitejasondonovan.com

Jason Sean Donovan (sinh ngày 1 tháng 6 năm 1968) là một diễn viên kiêm ca sĩ nổi tiếng người Úc. Ban đầu anh tạo được danh tiếng với vai diễn Scott Robinson trong bộ phim truyền hình Úc nổi tiếng Neighbours ,trước khi bắt đầu sự nghiệp âm nhạc vào năm 1988. Album đầu tay của anh Ten Good Reasons là album bán chạy nhất ở Anh vào năm 1989, với doanh số hơn 1,5 triệu, trong năm này anh bán được hơn 3 triệu bảng chỉ riêng tại Anh gồm cả single lẫn album, cho đến nay album đã tiêu thụ được hơn 30 triệu bản trên toàn thế giới. Anh có bốn đĩa đơn số 1 tại Vương quốc Anh, một trong số đó là "Especially for You", bản hit song ca kinh điển vào năm 1988 của anh cùng Kylie Minogue, bạn diễn trong phim Neighbours . Ngoài ra, anh còn ghi dấu ấn với một số vở nhạc kịch, nổi bật nhất là vai chính trong vở nhạc kịch kinh điển Joseph and the Amazing Technicolor Dreamcoat vào đầu những năm 1990. Tại Việt Nam, anh quen thuộc với người yêu nhạc với các bản hit Rhythm of the Rain Sealed with a kiss.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Jason Donovan sinh ra ở vùng ngoại ô của thành phố Melbourne, thuộc bang Victoria của nước Úc. Anh là con trai của nữ diễn viên người Úc Sue McIntosh (nhũ danh là Menlove) và nam diễn viên sân khấu và truyền hình kỳ cựu người Anh Terence Donovan (ông cũng từng tham gia trong phim Neighbours kinh điển). Cha anh là người Anh gốc Ireland, còn mẹ là người Úc. Sau khi cha mẹ anh ly hôn, cha anh được toàn quyền nuôi con vào năm 1973 và tự mình nuôi dưỡng anh khôn lớn. Kể từ khi cha mẹ ly hôn, anh chưa từng gặp lại mẹ ruột của mình. [1]

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

1980–1989: Sự nghiệp truyền hình và bộ phim Neighbours

[sửa | sửa mã nguồn]

Donovan bắt đầu đóng phim truyền hình từ năm 11 tuổi vào vai khách mời trong bộ phim truyền hình Úc Skyways kể từ năm 1980. Anh diễn vai anh trai của Kylie Minogue, người tình màn ảnh và ngoài đời của anh sau này. Sau đó, anh tham gia một số phim trong vai trò diễn viên nhí như I Can Jump Puddles (1981) và Golden Pennies (1985) trước khi tham gia vào dàn diễn viên của Neighbours năm 1986 với vai Scott Robinson (thay thế diễn viên Darius Perkins, người đã đóng vai này trong năm đầu tiên của loạt phim). Nhân vật Scott nổi bật với mối tình cùng nhân vật Charlene Mitchell (do Minogue thủ vai) cả hai cuối phim đã có cái kết có hậu bằng một đám cưới, bộ phim rất nổi tiếng tại Anh cũng như Úc[1].

Sau thành công với nhân vật Scott, Jason đã nhận được Giải Logie đầu tiên cho hạng mục "Tài năng mới xuất sắc nhất" vào năm 1987 và giải "Nam diễn viên truyền hình xuất sắc " từ giải thưởng Penguin của Hiệp hội Truyền hình Úc. Năm 1988, anh được trao giải Silver Logie cho "Nam diễn viên được yêu thích nhất" của truyền hình Úc.[1]

Ngoài vai diễn thường xuyên trong Neighbours , Donovan còn xuất hiện với vai "Happy Houston" trong loạt mini series The Heroes về đề tài Thế chiến thứ hai của Úc năm 1988 , dựa trên tiểu thuyết lịch sử của Ronald McKie. Nhờ thành công của bộ phim, anh tiếp tục giành được Giải thưởng Logie vào năm 1990 cho hạng mục "Nam diễn viên được yêu thích nhất".[1]

Donovan đã rời "Neighbours" vào năm 1989 để chú tâm cho sự nghiệp âm nhạc. Hai mươi năm sau, anh cho biết được đề nghị trở lại đoàn phim để tham gia lễ kỷ niệm 25 năm của bộ phim vào năm 2010, nhưng không thể thực hiện do bận rộn lịch trình các công việc khác.[1]

1988–1991: Sự nghiệp của ngôi sao nhạc pop

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong khi vẫn xuất hiện trong Neighbours , Donovan đã theo chân Minogue ký hợp đồng thu âm với hãng Mushroom Records ở Úc, và với hãng PWL tại Anh. Đĩa đơn đầu tiên của anh là "Nothing Can Divide Us", được phát hành vào năm 1988. Giống như chất liệu nhạc của Minogue, ca khúc được viết và sản xuất bởi đội ngũ sản xuất của Stock Aitken Waterman. Đĩa đơn đạt vị trí thứ năm tại Anh[2][3].

Đĩa đơn tiếp theo của Donovan là một bản song ca với Minogue. "Especially for You" được phát hành vào tháng 12 năm 1988, và sau bốn tuần đứng ở vị trí thứ 2 ở Anh, nó đã đạt vị trí số 1 vào tháng 1 năm 1989. Đây là đĩa đơn bán chạy thứ 4 ở Anh vào năm 1988 và thứ 17 tại Úc trong năm 1989[2][3].

Đĩa đơn tiếp theo của anh là "Too Many Broken Hearts" đã nhanh chóng đạt vị trí quán quân ở Anh vào tháng 3 năm 1989. Không lâu sau, anh đã phát hành album đầu tay Ten Good Reasons vào tháng 5 năm 1989, cũng đạt được vị trí số một (chỉ trong vòng ba tuần). Donovan đồng thời giữ vị trí số một trong bảng xếp hạng đĩa đơn và bảng xếp hạng album chỉ trong vòng 2 tuần. Đĩa đơn tiếp theo của anh là "Sealed With a Kiss", bản cover lại từ bài hát gốc của Brian Hyland cũng đạt được vị trí số 1 tại bảng xếp hạng UK charts. Vào tháng 12 năm 1989, anh tham gia vào show "Do They Know It’s Christmas" của Band Aid II, bao gồm cả Minogue được chiếu song song trên truyền hình Úc và Anh[2][3].

Donovan phát hành album thứ hai của mình là Between The Lines vào tháng 5 năm 1990, một lần nữa album cũng được sản xuất bởi Stock Aitken Waterman. Mặc dù album đạt vị trí Bạch kim ở Anh, nhưng thành tích của nó kém hơn so với lần ra mắt của anh một năm trước đó, đạt vị trí số 2 và chỉ bán được 1/5 số bản ghi âm. Năm đĩa đơn đã được phát hành từ album thứ hai, và mặc dù tất cả đều lọt vào Top 30 của bảng xếp hạng UK charts, nhưng cũng báo hiệu sự sụt giảm mức độ nổi tiếng của anh. Các đĩa đơn của Donovan đã giành được vị trí 16 trong Top 40 đĩa đơn ăn khách tại Anh từ năm 1988 đến 1992[2][3].

Năm 1990, anh bắt đầu chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới của mình mang tên "Doin 'Fine Tour". Tour diễn bao gồm vòng quanh nước Anh, Ireland, Lục địa Châu Âu, Úc, Singapore và các khu vực khác của Đông Nam Á. Buổi hòa nhạc tại Dublin được thu âm và phát hành dưới dạng VHS vào năm 1990; và phát hành DVD vào năm 2010. Cũng trong năm 1990, song song với sự nghiệp nhạc Pop anh đóng chính trong bộ phim điện ảnh đầu tiên của mình mang tên Blood Oath (phim phát hành ở một số quốc gia với tên gọi Prisoners of the Sun )[2][3].

1991–1993: Sự nghiệp sân khấu và vụ kiện The Face

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1991, Donovan nhận lời đóng vai chính trong phiên bản cải tiến từ vở nhạc kịch Joseph and the Amazing Technicolor Dreamcoat của nhà hát London Palladium, do Steven Pimlott đạo diễn. Tiếp theo sau đó, Donovan có đĩa đơn đạt vị trí số 1 lần thứ 4 trong sự nghiệp của mình tại UK charts với ca khúc "Any Dream Will Do", một trong những ca khúc nổi tiếng nhất của anh. Sau đó, Donovan rời khỏi hãng đĩa PWL vào đầu năm 1992[4].

Năm 1992, Donovan đã phát động một hành động bôi nhọ chống lại tạp chí The Face , vì tạp chí này đã đăng các cáo buộc cho rằng anh là người đồng tính. Donovan đã giành được 200.000 bảng tiền bồi thường thiệt hại và tạp chí này phải trả thêm 100.000 bảng Anh chi phí cho anh, nhưng vụ kiện đã tạo ra những phản ứng dữ dội khi những người đồng tính cáo buộc anh kỳ thị người đồng tính. Trong năm 2007 trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí Marie Claire , và trong cuốn tự truyện năm 2007 Between The Lines: My Story Uncut , Donovan tuyên bố rằng việc kiện The Face là sai lầm lớn nhất trong cuộc đời anh[4].

Đến năm 1993, Donovan ký hợp đồng với hãng đĩa Polydor Records và phát hành album thứ ba của mình mang tên All Around The World [2][4].

1995–1999: Nghiện ma túy, Viên đạn cuối cùng và tiếp tục công việc nhạc kịch

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào năm 1995, Donovan thừa nhận rằng anh mắc chứng nghiện ma túy nghiêm trọng, mỗi ngày phải hít khoảng 3 gam cocaine. Đầu năm 1995, anh tham dự bữa tiệc sinh nhật lần thứ 21 của người mẫu Kate Moss tại The Viper RoomLos Angeles, California, Mỹ , khi đó anh đã bị đưa vào bệnh viện cấp cứu vì sử dụng ma túy quá liều. Sau đó, anh nhận lời đóng vai chính trong bộ phim truyền hình Úc Viên đạn cuối cùng đóng cặp với Koji Tamaki, do Michael Pattison đạo diễn, lấy bối cảnh Thế chiến thứ hai trên đảo Borneo ở Thái Bình Dương[5].

Năm 1998, Donovan đảm nhận vai chính Dr. Frank N. Furter trong vở nhạc kịch mang tên The Rocky Horror Show, tại đây anh đã gặp người quản lý sân khấu Angela Malloch. Sau khi hai người có một mối quan hệ chớp nhoáng trong vòng hai năm, thì Malloch có thai và đưa ra tối hậu thư cho Donovan rằng anh phải chấm dứt hút ma túy nếu anh muốn trở thành một phần cuộc đời của hai mẹ con[5].

Cuối năm 1999, Donovan tuyên bố rằng anh vẫn sử dụng cocaine, anh nói: "Tôi vẫn bị đau khớp và tôi vẫn hít cocaine, nhưng không nhiều như hai năm trước." Vào năm 2011, anh tuyên bố mình đã không còn sử dụng ma túy kể từ năm 2000, thời điểm đứa con đầu lòng của anh chào đời[5].

2000–2005: Vai trò làm cha, MDA và vở nhạc kịch Sweeney Todd

[sửa | sửa mã nguồn]

Kể từ tháng 3 năm 2000, khi con gái đầu lòng của anh là Jemma Donovan được sinh ra, thì chứng nghiện ma túy của anh đã chấm dứt, sau đó anh tiếp tục diễn xuất trên sân khấu và truyền hình, và có một vai diễn trong bộ phim truyền hình về đề tài ngành y và ngành luật mang tên MDA trên kênh truyền hình ABC của Úc (phát sóng từ 2003-2005). Kể từ năm 2003, Donovan cũng tham gia lồng tiếng cho loạt trò chơi điện tử đố vui mang tên Buzz! [6].

Cuối năm 2004, anh gây chú ý trong vở nhạc kịch Chitty Chitty Bang Bang tại nhà hát London Palladium. Ban đầu dự kiến anh sẽ kết thúc buổi biểu diễn của mình vào ngày 13 tháng 3 năm 2005, nhưng sau đó vì vở kịch ăn khách nên anh được mời trở lại từ tháng 6 để diễn trong hai tháng cuối cùng của show, cho đến khi nó đóng cửa chính thức vào ngày 4 tháng 9 năm 2005. Sau đó, anh đã đi lưu diễn vòng quanh nước Anh và trở lại sân khấu vào tháng 1 năm 2006 để đóng vai chính trong vở nhạc kịch mang tên Sweeney Todd của đạo diễn Stephen Sondheim. Tiếp theo đó cùng năm, anh quay trở lại Melbourne để đóng vai chính trong bộ phim truyền hình Festen của đạo diễn David Eldrige[6].

2005–2006: Vụ việc tranh cãi của hãng điện thoại Virgin Mobile và tham gia show I’m a Celebrity ...Get Me Out of Here!

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào năm 2005, số điện thoại di động của Donovan đã được lan truyền khắp nơi trên mạng ở Úc, do một bức ảnh được chụp ở Sydney. Có vẻ như Donovan đang cố gắng bán chiếc xe của mình và vô tình tiết lộ số điện thoại di động của mình cho công chúng. Từ ngày 10 tháng 9, máy trả lời tự động của anh có một tin nhắn đặc biệt, vì anh bực bội với số lượng cuộc gọi mà anh ấy đang nhận. Hãng điện thoại di động Virgin đã đăng quảng cáo trên một số tờ báo nổi tiếng của Úc, kêu gọi mọi người không gọi cho Donovan,anh là một trong những khách hàng của họ. Hãng Virgin Mobile sau đó đã thừa nhận bức ảnh bị lộ ra là một phần của chiêu trò tiếp thị[7].

Năm 2006, Donovan tham gia show truyền hình thực tế I'm a Celebrity... Get Me Out of Here! và kết thúc ở vị trí thứ 3. Khi ở trong rừng, anh đã trở thành bạn tốt của David GestMatt Willis. Donovan cũng đã tham gia nhiều thử thách Bushtucker, bao gồm việc đội một chiếc mũ bảo hiểm đầy côn trùng và chơi trò chơi Operation . Donovan thua Matt Willis ở vòng Vương miện của Chúa tể rừng rậm. Bất chấp việc bị thua cuộc, trong một cuộc phỏng vấn trên show The Steve Wright Show của đài BBC Radio 2 vào tháng 1 năm 2008, anh cho biết việc tham gia show Tôi là Người nổi tiếng ... Hãy mang tôi ra khỏi đây ǃ đã giúp anh hồi sinh sự nghiệp của mình[7].

2007–2009: Quay trở lại sự nghiệp âm nhạc và truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]
Donovan tại buổi ký tặng sách tại Waterstones Bournemouth vào năm 2007.

Tháng 7 năm 2007 Donovan biểu diễn liên khúc các bài hát của Joseph cùng với các diễn viên khác bao gồm Donny OsmondLee Mead tại Buổi hòa nhạc Diana. Đầu năm 2008, Donovan tham gia đóng bộ phim truyền hình của kênh ITV mang tên Echo Beach ; tuy nhiên bộ phim đã bị hủy bỏ sau 12 tập được công chiếu. Sau đó, anh cũng trình làng show Sunday Night with Jason Donovan , một chương trình trên đài The One Network - đài phát thanh địa phương của Anh[6].

Vào ngày 25 tháng 9 năm 2008, Donovan biểu diễn trong căng tin tại trụ sở chính của TescoGarden city Welwyn, Hertfordshire. Đó là hoạt động để quảng bá cho album mới của anh mang tên Let It Be Me được phát hành vào ngày 10 tháng 11 năm 2008. Đây là album đầu tiên của anh trong vòng 15 năm đạt vị trí thứ 28 tại Anh. Cũng trong năm 2008, Donovan có buổi biểu diễn tại Party In The Park ở Wellingborough, Northamptonshire. Vào năm 2009, Donovan đóng vai Tick (Mitzi) trong vở nhạc kịch Priscilla Queen of the Desert ở London của tại Nhà hát Palace. Cùng năm, Donovan ký hợp đồng quảng cáo (cùng với với Kerry KatonaColeen Nolan) cho chuỗi siêu thị thực phẩm đông lạnh Iceland ở Anh[6].

2010 – nay: Soundtracks of the 80s, Strictly Come Dancing, Sign of Your Love, Superstar và Khiêu vũ trên băng

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 9 năm 2010, Donovan tham gia vào show truyền hình BBC Bạn nghĩ mình là ai ? (Who Do You Think You Are?), truy tìm gia phả của anh qua nhiều thế hệ. Album phòng thu thứ năm của Donovan, Soundtrack of the 80s được phát hành vào tháng 10 năm 2010. Album bao gồm các bản cover của các bản hit nổi tiếng trong những năm 1980 như "Drive", "The Cars," I Just Died In Your Arms", "Cut Crew", "Sign Your Name", "Terence Trent D'Arby" và một số ca khúc khác. Cùng năm, Donovan đóng vai The Artilleryman trong vở kịch sân khấu Jeff Wayne's The War of the Worlds (phiên bản nhạc kịch). Chương trình đã lưu diễn ở Anh và Châu Âu, bắt đầu từ tháng 11 năm 2010 và kết thúc tại Đức vào tháng 1 năm 2011. Donovan cũng lồng tiếng cho nhân vật Toby trong bộ phim hoạt hình về môi trường Animals United [6][8].

Vào tháng 2 năm 2011, Donovan xuất hiện trong loạt phim của BBC Ready, Steady, Cook . Sau đó, anh tổ chức tour lưu diễn Here and Now Tour, và cũng đã đi lưu diễn cùng với vở nhạc kịch mang tên The Sound of Music trong vai Captain Von Trapp. Vở kịch cũng có sự tham gia của Verity Rushworth trong vai Maria. Từ tháng 9 năm 2011, Donovan đã tham gia show truyền hình thực tế mùa thứ 9 của đài BBC mang tên Strictly Come Dancing . Anh đã hợp tác với vũ công Kristina Rihanoff và về thứ ba trong cuộc thi. Donovan đã dẫn một chương trình trên sóng radio Heart vào mỗi Chủ nhật từ 10 giờ sáng đến 12 giờ trưa, sau đó Donovan tạm thời rời đài vào năm 2013[6][8].

Vào tháng 3 năm 2012, Donovan đã phát hành một album mới mang tên Sign Of Your Love , đạt vị trí thứ 36 trong Bảng xếp hạng Album của Anh. Vào tháng 5 năm 2012, Donovan đã tham gia talkshow Những câu chuyện về cuộc đời của Piers Morgan do Piers Morgan chủ trì trên kênh ITV, trong đó anh đã trò chuyện cởi mở về sự nghiệp của mình, quá khứ của anh, mối quan hệ cũ của anh với người tình cũ Kylie Minogue và cuộc chiến của anh với ma túy. Trong cuộc phỏng vấn, Donovan cũng thừa nhận rằng anh đã trải qua việc cấy tóc để cải thiện mái tóc mỏng của mình. Vào mùa hè năm 2012, anh tham gia với vai trò giám khảo cho chương trình tìm kiếm tài năng của đài ITV Superstar. Vào cuối năm 2012, Donovan một lần nữa lưu diễn khắp nước Anh và Châu Âu trong phiên bản mới của Jeff Wayne's War of the Worlds , lần này là vào vai Parson Nathaniel[6][8].

Năm 2013, Donovan diễn lại vai Tick / Mitzi trong vở kịch lưu diễn xuyên quốc gia mang tên Priscilla, Queen of the Desert .Vào tháng 1 năm 2015, Donovan tiết lộ một lần nữa anh được mời trở lại đoàn phim Neighbours trong hoạt động mừng lễ kỷ niệm 30 năm của bộ phim, nhưng anh đã từ chối lời đề nghị và nói thêm rằng "đó không phải là điều tôi muốn làm". Tuy vậy, anh đồng ý tham gia bộ phim tài liệu đặc biệt về bộ phim mang tên Neighbors 30: The Stars Reunite , được phát sóng cùng lúc ở Úc và Anh vào tháng 3 năm 2015[6][8].

Kể từ năm 2015, Donovan tham gia dẫn chương trình "Tua lại những năm 80 cùng Jason Donovan" (chương trình kéo dài từ 2015 đến 2017) trên sóng Heart Radio, phát sóng vào các tối Chủ Nhật từ 7 giờ tối đến 10 giờ tối. Vào năm 2016, Donovan đã đi lưu diễn vòng quanh nước Anh với chuyến lưu diễn mang tên Ten Good Reasons and Greatest Hits[6][8].

Vào năm 2017, chương trình Heart 80s Radio được ra mắt công chúng và anh bắt đầu dẫn vào các Buổi sáng Chủ nhật từ 9 sáng đến 12 giờ trưa cùng với Chương trình Tua lại thập niên 80 vào các Buổi tối Chủ nhật trên đài Heart. Đến tháng 12 năm 2017, Donovan sẽ có đợt nghỉ thứ hai sau các chương trình radio của mình. Anh xác nhận mình sẽ trở lại Heart vào một thời điểm nào đó trong tương lai[6][8].

Vào mùa hè năm 2019, Donovan trở lại nhà hát London Palladium trong một vở kịch mới của Joseph and the Amazing Technicolor Dreamcoat , lần này đóng vai Pharaoh cùng với Sheridan Smith trong vai Người kể chuyện và Jac Yarrow trong vai Joseph. Quá trình sản xuất dự kiến sẽ quay trở lại vào mùa hè năm 2020 với sự trở lại của Donovan và Yarrow, tuy nhiên do đại dịch COVID-19, quá trình sản xuất đã bị hoãn lại đến mùa hè năm 2021[6][8].

Vào Giáng sinh năm 2020, Donovan dự định sẽ ra mắt vở kịch câm trong vai Evil Ringmaster của vở Goldilocks and the Three Bears tại Birmingham Hippodrome, tuy nhiên do đại dịch COVID-19 vở kịch câm lại bị hoãn lại đến Giáng sinh năm 2021[6][8].

Năm 2021, Donavan thi đấu trong show thực tế Dancing on Ice mùa thứ 13, kết hợp với Alexandra Schauman. Tuy nhiên, anh đã rút khỏi cuộc thi vào tuần thứ 6 do chấn thương lưng. Cũng trong năm 2021, anh bắt đầu tour diễn mang tên Even more good reasons lưu diễn vòng quanh nước Anh và Ireland diễn ra từ tháng 10/2021 đến tháng 3/2022, tuy nhiên do đại dịch tiếp tục hoành hành, tour diễn tại Ireland dự kiến sẽ diễn ra vào tháng 2 và tháng 3 có khả năng bị hoãn lại [6][8][9].

Đời sống cá nhân

[sửa | sửa mã nguồn]

Mối tình đầu của Jason Donovan là với nữ ca sĩ người Úc Kylie Minogue, bạn diễn trong phim Neighbours lẫn trong sự nghiệp âm nhạc của anh với bài hit song ca kinh điển “Especially for You”. Họ gặp nhau lần đầu tiên khi cả hai mới 11 tuổi và cả hai đều là những diễn viên nhí trong bộ phim Skyways (1980). Sau đó cặp đôi gặp lại nhau vào năm 1985 khi cả hai đi casting trong bộ phim truyền hình nổi tiếng “Neighbours” (1986), trong quá trình đóng phim họ đã nảy sinh tình cảm và trở thành cặp tình nhân thật bước ra từ màn ảnh. Sau đó cả hai đã đổ bộ làng nhạc Pop thế giới với nhiều bản hit đình đám đồng thời trở thành cặp đôi được yêu thích của làng nhạc quốc tế. Tuy nhiên vì lịch trình bận rộn nên khoảng cách hai người càng xa. Mùa hè năm 1989, cả hai tuyên bố chia tay trong sự ngỡ ngàng của nhiều khán giả hâm mộ của cặp đôi trên toàn thế giới sau ba năm hẹn hò kể từ năm 1986 đến 1989. Vào dịp giáng sinh năm 2012 họ tái hợp trên sân khấu trong một show ca nhạc của BBC biểu diễn ca khúc “Especially for you” sau gần 23 năm kể từ bản hit kinh điển được ra mắt công chúng, màn trình diễn đã thu hút đến gần 7 triệu lượt xem trên youtube.Kể từ đó, họ thường xuyên tái hợp vào những dịp kỷ niệm đặc biệt và được khán giả rất yêu thích. Năm 2008, Donovan đã kết hôn với Angela Malloch, người phụ nữ đã sinh cho anh ba mặt con gồm hai con gái và 1 con traiː Jemma (sinh năm 2000), Zac (sinh năm 2001) và Molly (sinh năm 2011). Hiện gia đình anh đang sống ở phía Tây LondonOxfordshire, Anh Quốc. Trong khi đó, em gái cùng mẹ khác cha của Donovan tên Stephanie McIntosh trước đây cũng từng tham gia phim Neighbours. Mặc dù bị mẹ ghẻ lạnh, nhưng anh lại gần gũi với bà ngoại và những người họ hàng khác bên ngoại[2][10].

Donovan là khách mời trong một tập của show truyền hình thực tế BBC Bạn nghĩ mình là ai? (Who Do You Think You Are?) vào ngày 30 tháng 8 năm 2010, trong đó anh phát hiện ra mình là hậu duệ của nhân vật tiên phong William Cox, người đã xây dựng con đường đầu tiên qua Blue Mountains của Úc vào năm 1814. Ngoài ra, Donovan còn xác nhận được anh có nguồn gốc người Do Thái thông qua bà cố ngoại của mình, bà Eileen Dawson (nhũ danh Lyons)[2][10].

Danh sách đĩa hát

[sửa | sửa mã nguồn]

Album phòng thu

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh sách các album phòng thu, vị trí trên các bảng xếp hạng và chứng nhận doanh thu
Tựa đề Chi tiết album Vị trí bảng xếp hạng Chứng nhận doanh thu bán đĩa
(Danh sách chứng nhận doanh thu đĩa hát)
AUS
[11]
AUT
[12]
GER
[13]
NLD
[14]
NZ
[15]
SWE
[16]
SWI
[17]
UK
[18]
Ten Good Reasons[19]
  • Phát hành: 1989
  • Hãng đĩa: PWL
5 20 3 21 4 29 20 1
Between the Lines[22]
  • Phát hành: 1990
  • Hãng đĩa: PWL
77 18 52 25 44 37 2
All Around the World[23]
  • Phát hành: 1993
  • Hãng đĩa: Polydor
27
Let It Be Me[24] 28
Soundtrack of the 80s 20
Sign of Your Love[25]
  • Phát hành: 2012
  • Hãng đĩa: Polydor Records
36

Album tổng hợp

[sửa | sửa mã nguồn]

Greatest Hits

  • Lưu ý: Một số bộ sưu tập tác phẩm của Donovan đã được phát hành, bao gồm "Greatest Hits" năm 1991, đạt vị trí thứ 9 ở Anh,[18] và # 132 ở Úc.[11]
Danh sách các đĩa đơn, với các vị trí và chứng nhận trên bảng xếp hạng đã chọn
Năm Tựa đề Vị trí bảng xếp hạng Danh sách chứng nhận thu âm Album
AUS
[11]
BEL
[26]
FIN
[27]
GER
[28]
IRE
[29]
NLD
[30]
NZ
[15]
SWE
[31]
SWI
[32]
UK
[18]
1988 "Nothing Can Divide Us" 3 38 12 3 39 5 Ten Good Reasons
"Especially for You" (song ca với Kylie Minogue) 2 5 4 10 1 4 2 12 2 1
1989 "Too Many Broken Hearts" 7 2 3 16 1 3 21 13 27 1
"Sealed with a Kiss" 8 2 2 4 1 11 13 8 7 1
"Every Day (I Love You More)" 43 6 9 19 1 47 41 2
"When You Come Back to Me" 40 6 2 36 1 20 2 Between the Lines
1990 "Hang On to Your Love" 12 51 3 26 8
"Another Night" 12 14 52 6 43 18
"Rhythm of the Rain" 44 14 38 6 9
"I'm Doing Fine" 123 34 60 9 22
1991 "RSVP" 97 22 66 8 17 Greatest Hits
"Any Dream Will Do" 92 19 55 1 55 1 Joseph and the Amazing Technicolor Dreamcoat
"Happy Together" 20 53 6 10 Greatest Hits
"Joseph Mega Remix" 13 Joseph and the Amazing Technicolor Dreamcoat
1992 "Mission of Love" 25 26 All Around the World
"As Time Goes By" 26
1993 "All Around the World" 41
"Angel"
2007 "Share My World" Chỉ phát hành single lẻ
2008 "Dreamboats and Petticoats" Let It Be Me
2012 "Make Love" 91 Sign of Your Love

Danh sách phim đã tham gia

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh sách phim của Jason Donovan
Năm Tựa phim Thể loại Vai diễn
1980 Skyways Truyền hình Robin's Brother & Trevor Kirk
1981 I Can Jump Puddles Điện ảnh TV Freddy
1983 Home Truyền hình
1985 Golden Pennies Truyền hình Sean
1986–1989 Neighbours Truyền hình Scott Robinson (456 tập)
1989 The Heroes Mini series Happy Huston
1990 Prisoners of the Sun Điện ảnh Private Talbot
1990 Shadows of the Heart Điện ảnh TV Alex Fargo
1991 Joseph and the Amazing Technicolour Dreamcoat Truyền hình đặc biệt Joseph
1993 Galleria Phim ngắn Duane
1995 The Last Bullet Điện ảnh TV Stanley Brennan
1995 Rough Diamonds Điện ảnh Mike Tyrell
1996 The Sun, the Moon and the Stars Điện ảnh Pat
2000 Sorted Điện ảnh Martin
2002 Tempe Tip Điện ảnh Max
2003 Horseplay Điện ảnh Henry
2003 Ned Điện ảnh Cha Thompson
2002–2003 MDA Truyền hình Richard Savage
2004 Loot Điện ảnh TV Jon Peregrine
2005—2010 Buzz! Video game series Buzz
2005 Vietcong 2 Video game Australian Officer
2008 Echo Beach Truyền hình Daniel Marrack
2010 Animals United Điện ảnh Toby (lồng tiếng)
2011 Evil Calls (The Legend of Harrow Woods) Video film Gary
2011 Back2Hell Video film Gary
2012 PlayStation All-Stars Battle Royale Video game Buzz
2014 Boj Truyền hình CBeebies Pops (lồng tiếng)
2014 Watch Dogs - The Suspect Man Mission: Big Brother
2019 Dial M for Middlesbrough Truyền hình Darren
Các vai diễn sân khấu của Jason Donovan
Năm Tựa đề Thể loại Vai
2010,
2012,
2014
The War of the Worlds 2010: gốc
2012, 2014: "Jeff Wayne's Musical Version of The War of the Worlds – The New Generation" Bản làm lại
2010: Artilleryman
2012, 2014: Parson Nathaniel
2019 Joseph and the Amazing Technicolour Dreamcoat West End Pharaoh

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e Emine Saner (5 tháng 10 năm 2021). “Jason Donovan nói về Kylie, sự cô đơn và cocaine: 'Tôi là người sống sót và tôi đã phạm sai lầm'. irishtimes.com. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2021.
  2. ^ a b c d e f g h Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên smoothradio.com
  3. ^ a b c d e Tanya Sweeney (17 tháng 11 năm 2016). “Jason Donovan: 'Khi bạn là số 1, chỉ còn một cách là lùi lại'. irishtimes.com. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2021.
  4. ^ a b c Jack Marx (6 tháng 8 năm 2012). “Cuộc sống đa sắc màu của Jason”. smh.com.au. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2021.
  5. ^ a b c Richard Simpson & Janine Yaqoob (16 tháng 1 năm 2021). “Thói quen nghiện ngập khiến Jason Donovan nghiện sex và gần như bị chiếm đoạt”. mirror.co.uk. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2021.
  6. ^ a b c d e f g h i j k l m Thu Trang (25 tháng 7 năm 2002). “Jason Donovan trở lại sân khấu”. Báo điện tử VnExpress. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2021.
  7. ^ a b Mai Trần (14 tháng 3 năm 2007). “Chuyện ái tình của Kylie Minogue lên sách”. Báo điện tử VnExpress. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2021.
  8. ^ a b c d e f g h i Tuấn Vĩ (12 tháng 1 năm 2012). “Jason Donovan trở lại với âm nhạc”. thethaovanhoa.vn. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2021.
  9. ^ Retro Pop (26 tháng 7 năm 2021). “Jason Donovan lùi tour diễn 'Even More Good Reasons' do covid”. retropopmagazine.com. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2021.
  10. ^ a b Mi Vân (22 tháng 12 năm 2012). “Kylie Minogue được Jason Donovan bế bổng trong ngày tái hợp”. dantri.com.vn. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2021.
  11. ^ a b c Bảng xếp hạng (ARIA) tại Úc:
  12. ^ “Jason Donovan in der Österreichischen charts” (bằng tiếng Đức). austriancharts.at. Hung Medien. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2013.
  13. ^ “Charts.de:Jason Donovan” (bằng tiếng Đức). Charts.de. GfK Entertainment. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2013.
  14. ^ “GfK Dutch Charts: Jason Donovan (albums)” (bằng tiếng Hà Lan). GfK Dutch Charts Hung Medien. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2013.
  15. ^ a b “charts.nz > Jason Donovan in New Zealand Charts”. Hung Medien. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2019.
  16. ^ “Jason Donovan in Swedish charts”. swedishcharts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2013.
  17. ^ “Hitparade.ch: Jason Donovan” (bằng tiếng Đức). Hitparade.ch. Hung Medien. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2013.
  18. ^ a b c “Official Charts > Jason Donovan”. The Official UK Charts Company. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2019.
  19. ^ “Ten Good Reasons Album”. Discogs. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2013.
  20. ^ “The ARIA Top 100 Albums Chart – 1989 (1–60) (theo báo cáo của The ARIA Ấn phẩm No. 1)”. ARIA. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2016 – qua Imgur.com. N.B. The triangle symbol indicates platinum certification.
  21. ^ a b c d e f g "Certified Awards Search Lưu trữ 2017-08-01 tại Wayback Machine". British Phonographic Industry. Retrieved on 28 September 2016. Note: User needs to enter "Jason Donovan" in the "Search" field, "Artist" in the "Search by" field and click the "Go" button. Select "More info" next to the relevant entry to see full certification history.
  22. ^ “Between The Lines Album”. Discogs. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2013.
  23. ^ “All Around The World Album”. Discogs. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2013.
  24. ^ “Let It Be Me Album”. Discogs. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2013.
  25. ^ “Sign Of Your Love Album”. Discogs. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2013.
  26. ^ “Ultratop Belgian Charts”. Ultratop.be (bằng tiếng Hà Lan). ULTRATOP & Hung Medien / hitparade.ch. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2013.
  27. ^ Pennanen, Timo (2006). Sisältää hitin – levyt ja esittäjät Suomen musiikkilistoilla vuodesta 1972 (bằng tiếng Phần Lan) (ấn bản thứ 1). Helsinki: Kustannusosakeyhtiö Otava. tr. 131. ISBN 978-951-1-21053-5.
  28. ^ “Die ganze Musik im Internet: Charts - German Singles” (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2013.[liên kết hỏng]
  29. ^ “The Irish Charts”. IRMA 2006 - 2008. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2013.
  30. ^ “dutchcharts.nl - Dutch charts portal” (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2013.
  31. ^ “Swedish Charts - Swedish charts portal”. Swedishcharts.com. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2013.
  32. ^ “Hitparade.ch: Jason Donovan (singles)” (bằng tiếng Đức). Hitparade.ch. Hung Medien. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2013.
  33. ^ “ARIA Singles Chart w/c 13-3-1989”. ARIA. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2019 – qua Imgur.com. N.B. Gold certifications are annotated by <G> in the Accred. column.
  34. ^ Ryan, Gavin (2011). Australia's Music Charts 1988-2010 . Mt. Martha, VIC, Australia: Moonlight Publishing. tr. 85.
  35. ^ “The ARIA Top 100 Singles Chart – 1989 (61–100) (from The ARIA Report Issue No. 1)”. ARIA. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2016 – qua Imgur.com. N.B. The circle symbol indicates gold certification.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]