[go: up one dir, main page]
More Web Proxy on the site http://driver.im/Bước tới nội dung

Thân vương quốc Antioch

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Công quốc Antioch)
Công quốc Antioch
Tên bản ngữ
  • Principatus Antiochenus
1098–1268
Quốc huy Antioch
Quốc huy
Thân vương quốc Antioch trong bối cảnh các bang khác của Cận Đông năm 1135.
Tổng quan
Vị thếChư hầu của Đế quốc Byzantine
(1138–1153, 1159–1183)
Chư hầu của Vương quốc Kilikia
(1254–1260)
Chư hầu của Ilkhanate
(1260–1268)
Thủ đôAntioch
Ngôn ngữ thông dụngMedieval Latin, tiếng Pháp cổ, tiếng Norman cổ, tiếng Armenia, tiếng Hy Lạp, tiếng Ả Rập
Tôn giáo chính
Công giáo Rôma (de jure)
Chính trị
Chính phủThân vương quốc
Thân vương xứ Antioch 
• 1098–1111
Bohemond I xứ Antioch
• 1252–1268
Bohemond VI xứ Antioch
Lịch sử
Thời kỳTrung kỳ Trung cổ
• Thập tự chinh thứ nhất
1098
• Bị chiếm bởi Baibars
1268
Tiền thân
Kế tục
Nhà Fatimid
Hồi quốc Rûm
Vương quốc Hồi giáo Mamluk (Cairo)
Hiện nay là một phần của Thổ Nhĩ Kỳ
 Syria

Thân vương quốc Antioch (tiếng La Tinh: Principatus Antiochenus) là một trong số các nhà nước của thập tự quân trong Cuộc Thập Tự chinh thứ nhất, bao gồm một số phần lãnh thổ của Thổ Nhĩ KỳSyria ngày nay. Thân vương quốc nhỏ hơn nhiều so với Bá quốc Edessa lẫn Vương quốc Jerusalem kế bên. Thân vương quốc này mở rộng xung quanh rìa Tây Bắc giáp Địa Trung Hải, tiếp giáp biên giới với Bá quốc Tripoli ở phía Nam, Edessa ở phía Đông, và Đế quốc Byzantine hoặc Vương quốc Kilikia ở phía Tây Bắc, tùy theo thời điểm.

Thân vương quốc có dân số xấp xỉ 20.000 người vào thế kỉ thứ XII, đa phần là người Armeniangười Hy Lạp theo Chính thống giáo, cộng thêm một số ít người Hồi giáo ở ngoại vi thành phố. Đa số thập tự quân định cư ở đây có gốc gác là người Norman, nhất là từ Vương quốc Sicilia ở phía Nam Bán đảo Ý, cũng chính là những người cai trị đầu tiên của Thân vương quốc này, những người mà đã tự bổ nhiệm vây cánh bằng chính tâm phúc của họ. Ít có cư dân nào ngoài Thập tự quân theo Công giáo La Mã, mặc dù vậy thành phố lại được chuyển thành Tòa Thượng Phụ La-tinh, được thành lập vào năm 1100. Tòa thượng phụ này sẽ tồn tại với tư cách là tòa thượng phụ sau các cuộc Thập tự chinh, cho đến khi nó bị bãi bỏ vào năm 1964.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]
Vây hãm Antioch, từ một bức tranh thu nhỏ thời trung cổ.

Thành phố Antioch từng là một thành trì lớn của Byzantine trong khu vực dưới sự kiểm soát của một doux (công tước) trước khi rơi vào tay Seljuk Turk vào năm 1084.[1] Do đó, đây là một trong những thành phố mà quân đội của cuộc Thập tự chinh đầu tiên hướng đến trên đường đến Jerusalem. Trong khi Baldwin xứ Boulogne tiến về phía Đông từ Tiểu Á để thành lập Bá quốc Edessa, đội quân chính của cuộc Thập tự chinh lần thứ nhất tiếp tục tiến về phía Nam để bao vây Antioch vào cuối tháng 10 năm 1097. Đoàn quân bao gồm nhiều thủ lĩnh khác nhau đã thề trả lại tất cả lãnh thổ thuộc về Đế quốc Byzantine[2], trong đoàn quân này cũng có một đội quân Byzantine dưới sự chỉ huy của tướng quân Tatikios. Với hơn bốn trăm tòa tháp, hệ thống phòng thủ của thành phố rất đáng gờm. Cuộc bao vây kéo dài suốt mùa đông, với nhiều tổn thất trong lực lượng Thập tự chinh, những người thường bị buộc phải ăn thịt ngựa của họ, hoặc, như truyền thuyết kể lại, thi thể của tất cả những người theo đạo Cơ đốc không sống sót. Đã có một số nỗ lực của các thủ lĩnh Thổ Nhĩ Kỳ lân cận để giải vây cho thành phố, nhưng những người này đã bị đánh trả, chẳng hạn như trong Trận hồ Antioch dưới sự lãnh đạo quân sự của Bohemond xứ Taranto.

Vào tháng 5 năm 1098, một lực lượng giải vây khác dưới quyền Kerbogha xứ Mosul đã tiếp cận thành phố và do đó, quân thập tự chinh phải thực hiện những hành động nhanh chống hơn nữa để chiếm được Antioch. Bohemond đã thuyết phục được một người lính gác ở một trong những tòa tháp, một người Armenia và từng theo đạo Cơ đốc tên là Firouz, để quân Thập tự chinh tiến vào thành phố vào ngày 2 tháng 6 năm 1098.[3] Chỉ bốn ngày sau, một đội quân Hồi giáo từ Mosul, do Kerbogha chỉ huy, đã đến để bao vây quân Thập tự chinh. Alexios I Komnenos, Hoàng đế Byzantine, đang trên đường đến hỗ trợ quân Thập tự chinh; nhưng khi nghe tin rằng thành phố đã rơi vào tay người Hồi giáo, Alexios đã quay trở lại.[4]

Thập tự quân đã đứng vững trước cuộc bao vây, với sự giúp đỡ của một nhà thần bí tên là Peter Bartholomew. Peter tuyên bố rằng ông đã được Thánh Andrew đến thăm, người đã nói với ông rằng Holy Lance (Mũi giáo Thánh), là đầu cây thương đã đâm vào sườn của Chúa Kitô khi ngài bị đóng đinh trên thập tự giá, nằm trong thành phố. Các cuộc khai quật đã diễn ra trong nhà thờ St. Peter và cây thương được chính Peter phát hiện. Mặc dù có thể chính Peter đã dấu nó ở đó (Adhemar xứ Le Puy, đại diện hợp pháp của Giáo hoàng đã nghi ngờ điều này), nhưng nó đã nâng cao tinh thần của quân Thập tự chinh cũng như của người Armenia và Hy Lạp địa phương.[5] Với thánh tích đứng đầu quân đội, Bohemond hành quân ra ngoài để gặp lực lượng Hồi giáo đang bao vây, lực lượng này đã bị đánh bại trong trận Antioch. Theo Thập tự quân, một đội quân gồm các vị thánh đã xuất hiện để giúp đỡ họ trên chiến trường.[6]

Sau chiến thắng này, một cuộc tranh cãi kéo dài về việc ai sẽ kiểm soát thành phố đã diễn ra.[7] Bohemond tuyên bố rằng lời thề với Alexios đã bị vô hiệu do Alexios không mang quân và lương thực đến viện trợ cho thập tự quân. Ông đã bị Bá tước Raymond xứ Toulouse chống lại, người cho rằng thành phố nên được trả lại cho Alexios và người sau này đã thành lập Bá quốc Tripoli. Bohemond và những người theo người Norman gốc Ý của ông cuối cùng đã chiến thắng, đặc biệt là nhờ cái chết của Adhemar xứ Le Puy, người từng là thủ lĩnh tinh thần của cuộc thập tự chinh và đã quyết tâm hợp tác với người Byzantine.[8] Bohemond đã là Thân vương (lãnh chúa đồng minh) của TarantoÝ. Ông ấy mong muốn tiếp tục độc lập như vậy trong lãnh địa mới của mình, vì vậy ông ấy đã không cố gắng nhận tước hiệu Công tước từ Hoàng đế Byzantine, cũng như bất kỳ tước hiệu nào khác có nghĩa vụ phong kiến áp đặt.

Lịch sử ban đầu

[sửa | sửa mã nguồn]

Antioch và Đế chế Byzantine

[sửa | sửa mã nguồn]

Quan hệ với các khu định cư Latinh khác ở phía Đông

[sửa | sửa mã nguồn]

Thân vương quốc sụp đổ

[sửa | sửa mã nguồn]

Cư dân không phải người La Tinh

[sửa | sửa mã nguồn]

Các chư hầu của Antioch

[sửa | sửa mã nguồn]

Các quan chức của Antioch

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Vryonis 1971, tr. 159.
  2. ^ Runciman 1951, tr. 170.
  3. ^ Runciman 1951, tr. 231-233.
  4. ^ Runciman 2051, tr. 239-240.
  5. ^ Runciman 2051, tr. 245.
  6. ^ Runciman 2051, tr. 248.
  7. ^ Asbridge, Thomas S. (2000). The creation of the Principality of Antioch : 1098–1130. The Boydell Press. tr. 34. ISBN 9780851156613. OCLC 920135552.
  8. ^ Runciman 1951, tr. 251-253.

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn chính

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Ibn al-Qalanisi, The Damascus Chronicle of the Crusades, trans. H. A. R. Gibb (London, 1932).
  • John Kinnamos, Deeds of John and Manuel Comnenus, trans. C. M. Brand (New York, 1976).
  • Matthew of Edessa, The Chronicle of Matthew of Edessa, trans. A. E. Dostourian (Lanham, New York, London, 1993).
  • Orderic Vitalis, The Ecclesiastical History of Orderic Vitalis, ed. and trans. M. Chibnall, vols V–VI (Oxford, 1975–1978).
  • Walter the Chancellor, Bella Antiochena, ed. H. Hagenmeyer (Innsbruck, 1896)(bằng tiếng Đức).

Nguồn thứ cấp

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Angold M., The Byzantine Empire 1025–1204, 2nd ed. (London, 1997)
  • Barlow F., The Feudal King of England 1042–1216 (London, 1988)
  • Beaumont A. A., "Albert of Aachen and the County of Edessa", The Crusades and other historical essays presented to Dana C. Munro, ed. L. J. Paetow (New York, 1928), pp. 101–138.
  • Buck, Andrew D. (2017). The Principality of Antioch and its Frontiers in the Twelfth Century. Woodbridge: Boydell & Brewer. ISBN 9781783271733.
  • Brown, R. A., The Normans (Woolbridge, 1984)
  • Bella Antiochena, ed. H.Ferdinandi, Sergio (2017). La Contea Franca di Edessa. Fondazione e Profilo Storico del Primo Principato Crociato nel Levante (1098–1150). Pontificia Università Antonianum – Rome. ISBN 978-88-7257-103-3.
  • Edbury, P. W., "Feudal Obligations in the Latin East", Byzantion, vol. 47 (1977), pp. 328–356.
  • Edgington, S. B., "From Aachen: A new perspective on relations between the Crusaders and Byzantium, 1095-1120", Medieval History, vol. 4 (1994)
  • Hamilton, B., "Ralph of Domfront, patriarch of Antioch (1135–1140)", Nottingham Medieval Studies, vol. 28 (1984), pp. 1–21.
  • Harris, Jonathan (2014), Byzantium and the Crusades, Bloomsbury, 2nd ed. ISBN 978-1-78093-767-0
  • Hill, J. H., Raymond IV Count of Tolouse (New York, 1962)
  • Holt, P. M., The Age of the Crusades (London, 1986)
  • Richard, Jean (1999). The Crusades: c. 1071–c. 1291. Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-62566-1.
  • Runciman, Steven (1951), The History of the Crusades Volume I: The First Crusade and the Foundation of the Kingdom of Jerusalem, Cambridge University Press
  • Vryonis, Speros (1971). The Decline of Medieval Hellenism in Asia Minor and the Process of Islamization from the Eleventh through the Fifteenth Century. University of California Press.