Soyuz TM-31
Soyuz TM-31 Союз ТМ-31 | |
Nhà vận hành: | Rosaviakosmos |
ID COPSAR: | 2000-070A |
Số SATCAT: | 26603 |
Thời gian chuyến bay: | 186 ngày, 21 giờ, 48 phút, 41 giây |
Số quỹ đạo đã hoàn thành: | 3040 |
Thuộc tính tàu vũ trụ | |
Loại tàu: | Soyuz TM |
Nhà sản xuất: | RKK Energia |
Khối lượng (khi phóng): | 7150 kg |
Phi hành đoàn | |
Số người: | 3 |
Phóng lên: | Yuri P. Gizdenko Sergei K. Krikalyov William M. Shepherd |
Trở về: | Talgat A. Musabayev Yuri M. Baturin Dennis A. Tito |
Tên gọi: | Uran (Уран) |
Bắt đầu | |
Ngày phóng: | 31 tháng 10 năm 2000 07:52:47 UTC[1] |
Tên lửa: | Soyuz-U |
Nơi phóng: | Bệ phóng 1/5 Sân bay vũ trụ Baikonur |
Kết nối với ISS | |
Cổng kết nối: | Cổng sau Zvezda |
Ngày kết nối: | 2 tháng 11 năm 2000 09:21:03 UTC |
Ngày rời trạm: | 6 tháng 5 năm 2001 02:21:09 UTC |
Thời gian kết nối: | 184 ngày, 7 giờ |
Kết thúc | |
Ngày hạ cánh: | 6 tháng 5 năm 2001 05:41:28 UTC |
Nơi hạ cánh: | 90 km phía đông bắc Arkalyk |
Thông số quỹ đạo | |
Loại quỹ đạo: | Qũy đạo Trái Đất thấp |
Cận điểm: | 190 km |
Viễn điểm: | 248 km |
Độ nghiêng quỹ đạo: | 51.6 độ |
Chu kỳ quỹ đạo: | 88.6 phút |
Chương trình Soyuz | |
Chuyến bay trước: | Soyuz TM-30 |
Chuyến bay sau: | Soyuz TM-32 |
Soyuz TM-31 là chuyến bay tàu vũ trụ Soyuz đầu tiên cập bến Trạm Vũ trụ Quốc tế (ISS).[2] Tàu vũ trụ Soyuz-TM này đã chở các thành viên của Expedition 1, phi hành đoàn ISS dài hạn đầu tiên. Nó được phóng từ Baikonur, Kazakhstan vào lúc 07:51 UT ngày 31 tháng 10 năm 2000 bởi một tên lửa Soyuz-U.
Phi hành đoàn bao gồm các phi hành gia người Nga Yuri Gidzenko và Sergei Krikalyov, và William Shepherd, phi hành gia người Mỹ. Gidzenko là chỉ huy của chuyến bay lên, nhưng khi trên trạm vũ trụ, Shepherd trở thành Chỉ huy của phi hành đoàn dài hạn Expedition 1.[3]
Tàu vũ trụ đóng vai trò tàu cứu sinh của phi hành đoàn trong khi cập bến ISS. Phi hành đoàn Expedition 1 đã được đưa trở lại Trái Đất bằng Tàu con thoi trong sứ mệnh STS-102 vào tháng 3 năm 2001 và tàu vũ trụ Soyuz TM-31 ở lại với trạm cho một phần của Expedition 2. Vào tháng 4 năm 2001, một tàu vũ trụ khác, Soyuz TM-32, đã đến trạm và đóng vai trò làm tàu cứu sinh của trạm vũ trụ. Phi hành đoàn trên tàu Soyuz TM-32, trong đó bao gồm khách du lịch không gian đầu tiên Dennis Tito, đã trở về Trái Đất tháng 5 trên tàu Soyuz TM-31. Phi vụ của Tito đôi khi được gọi là ISS EP-1.
Phi hành đoàn
[sửa | sửa mã nguồn]Vị trí | Phi hành gia phóng lên | Phi hành gia trở về |
---|---|---|
Chỉ huy | Yuri P. Gizdenko, Rosaviakosmos
|
Talgat A. Musabayev, Rosaviakosmos
|
Kỹ sư chuyến bay 1 | Sergei K. Krikalyov, Rosaviakosmos
|
Yuri M. Baturin, Rosaviakosmos
|
Kỹ sư chuyến bay 2 | William M. Shepherd, NASA
|
Dennis A. Tito, Công ty Space Adventures
|
Chú thích:
- EP (tiếng Nga: ЭП, Экспедиция Посещения, Ekspeditsiya Posescheniya) nghĩa là phi hành đoàn ở ngắn ngày tại trạm vũ trụ.
Phi hành đoàn dự phòng
[sửa | sửa mã nguồn]Vị trí | Phi hành gia |
---|---|
Chỉ huy | Vladimir N. Dezhurov, Rosaviakosmos |
Kỹ sư chuyến bay 1 | Mikhail V. Tyurin, Rosaviakosmos |
Kỹ sư chuyến bay 2 | Kenneth D. "Sox" Bowersox, NASA |
Những điểm nhấn trong phi vụ
[sửa | sửa mã nguồn]Soyuz TM-31 đã kết nối với mô-đun Zvezda của Trạm vũ trụ quốc tế (ISS) vào khoảng 09:21 UT vào ngày 2 tháng 11. Tàu vận tải Progress/Tiến bộ M1-3 trước đó kết nối với Zvezda đã rời trạm để nhường chỗ cho Soyuz. Phi hành đoàn gồm hai người Nga và một người Mỹ dành hơn ba tháng trên ISS, và trở về Trái Đất trong tàu con thoi Mỹ (STS-102) vào tháng 2 năm 2001. Trong những ngày đầu, phi hành đoàn đã kích hoạt nhiều hệ thống hỗ trợ sinh sống và tạo ra một mạng lưới máy tính xách tay giúp chạy tất cả các hệ thống trong ISS. Các tháng còn lại được phân bổ cho việc tập thể dục và luyện tập sức bền trong không gian. Phi hành đoàn là nhóm bắt đầu chuỗi thời gian mà luôn có sự xuất hiện của loài người trên ISS và không gian, đến nay vẫn được giữ.
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ http://www.spacefacts.de/mission/english/soyuz-tm-31.htm
- ^ “Soyuz ISS Missions” (PDF). NASA. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2011.
- ^ “ISS: 10 Years of Human Space Mission”. Russian Federal Space Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 3 năm 2012.