[go: up one dir, main page]
More Web Proxy on the site http://driver.im/Bước tới nội dung

Hung Up

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
"Hung Up"
Đĩa đơn của Madonna
từ album Confessions on a Dance Floor
Phát hành18 tháng 10 năm 2005 (2005-10-18)
Thu âm2005
Thể loại
Thời lượng
  • 5:37 (phiên bản album)
  • 3:23 (phiên bản radio)
Hãng đĩaWarner Bros.
Sáng tác
Sản xuất
  • Madonna
  • Stuart Price
Thứ tự đĩa đơn của Madonna
"Love Profusion"
(2003)
"Hung Up"
(2005)
"Sorry"
(2006)
Video âm nhạc
"Hung Up" trên YouTube

"Hung Up" là một bài hát của nữ ca sĩ người Mỹ Madonna nằm trong phòng thu thứ mười Confessions on a Dance Floor (2005) của bà. Ca khúc này ban đầu được sử dụng ở nhiều quảng cáo và sê-ri trên sóng truyền hình và sau đó được phát hành làm đĩa đơn chủ đạo cho album vào ngày 18 tháng 10 năm 2005. Madonna đã sáng tác và sản xuất "Hung Up" cùng với Stuart Price, trong đó có sử dụng mẫu đoạn nhạc nền dạo đầu "Gimme! Gimme! Gimme! (A Man After Midnight)" của ban nhạc Thuỵ Điển ABBA. Nữ ca sĩ đã đích thân xin phép tác quyền từ nhạc sĩ Benny AnderssonBjörn Ulvaeus để được sử dụng đoạn mẫu đó, và đây là một trong số những lần hiếm hoi Andersson và Ulvaeus cho phép nghệ sĩ khác lấy mẫu một trong những bài hát của họ, sau "Rumble in the Jungle" của the Fugees và "Fly With Me" của 98 Degrees.

Về mặt sáng tác, "Hung Up" chịu ảnh hưởng của nhạc pop ở thập niên 1980. Bài hát có chứa đoạn điệp khúc sôi động và đem lại cảm giác muốn nhún nhảy, cùng với phần nhạc nền mang âm thanh của một chiếc đồng hồ đang kêu tích tắc, toát lên nỗi lo sợ thời gian sẽ trôi qua một cách uổng phí. Ở phần ca từ, "Hung Up" được viết lời theo khuôn mẫu một bản nhạc dance truyền thống, với nội dung nói về một phụ nữ mạnh mẽ độc lập nhưng lại gặp trắc trở trong chuyện tình yêu. Sau khi cho ra mắt, đĩa đơn đã nhận được nhiều lời tán dương từ các nhà phê bình âm nhạc. Họ đều nhận định cho rằng đây chính là bản dance xuất sắc nhất của Madonna và tin rằng "Hung Up" có thể giúp bà phục hồi danh tiếng sau khi bị tẩy chay dữ dội vì cho ra mắt album đầy tranh cãi American Life vào năm 2003. Ca khúc nhanh chóng trở thành bản hit toàn cầu, leo lên vị trí số một tại các bảng xếp hạng của 41 quốc gia khác nhau và xác lập một kỷ lục trong Sách Kỷ lục Guinness thế giới. "Hung Up" còn là đĩa đơn top 10 thứ 36 của Madonna ở bảng xếp hạng Billboard Hot 100, giúp bà san bằng Elvis Presley trở thành nghệ sĩ có nhiều ca khúc lọt top 10 nhất. Cuối cùng, bản hit đã trở thành nhạc dance thành công nhất trong thập kỷ tại Hoa Kỳ, và đã tẩu tán hơn năm triệu bản thuần trên toàn thế giới.

Video ca nhạc của "Hung Up" do Johan Renck đạo diễn, được dàn dựng nhằm tôn vinh nam diễn viên, vũ công kiêm ca sĩ người Mỹ John Travolta cùng các bộ phim của ông nói riêng, và nghệ thuật khiêu vũ nói chung. Nội dung video âm nhạc bắt đầu bằng cảnh Madonna mặc áo nịt ba lê nhảy múa một mình trong phòng tập, rồi bà đến phòng máy chơi trò chơi để khiêu vũ cùng với vũ đoàn của bà. Xen lẫn giữa những thước phim chính là các phân cảnh quay riêng gồm có những người đang lắc lư, nhảy múa theo từng bối cảnh chủ đề khác nhau, chẳng hạn như tại khu dân cư của người da đen tại Los Angeles, một nhà hàng nhỏ hoặc khu tàu điện ngầm ở Luân Đôn. Madonna đã trình diễn "Hung Up" ở nhiều buổi truyền hình trực tiếp. Bà đã từng đưa ca khúc này ở tiết mục cuối cùng trong chuyến lưu diễn Confessions Tour năm 2006, ở đợt diễn đầy cảm hứng heavy metal trong chuyến Sticky & Sweet Tour năm 2008, và trong chuyến lưu diễn The MDNA Tour năm 2012. Năm 2023, "Hung Up" được đưa vào danh sách tiết mục của chuyến lưu diễn The Celebration Tour liên khúc bản remix "on Tokischa".

Tổng quan và phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]

"Hung Up" được lấy cảm hứng từ dòng nhạc disco trong thập niên 1970, nổi bật trong đó là nhạc của ABBA, Giorgio Moroder và bộ phim Saturday Night Fever (1977).[1] Madonna tưởng tượng ca khúc của cô là một sự giao thoa giữa loại nhạc hay được chơi tại Danceteria, một hộp đêm ở thành phố New York nơi cô thường lui tới trong những ngày đầu, và âm nhạc của ABBA.[2] Ca khúc "Gimme! Gimme! Gimme! (A Man After Midnight)" năm 1979 của họ đặt nền tảng cơ bản cho Madonna và Price khi sáng tác "Hung Up". Hai nhạc sĩ của ABBA là Benny Andersson and và Björn Ulvaeus thường không cho phép bất kỳ ai mượn bất cứ bài hát nào của họ, một ngoại lệ duy nhất là The Fugees, ban nhạc đã mượn ca khúc "The Name of the Game" cho đĩa đơn "Rumble in the Jungle".[3] Để nhận được sự cho phép mượn đoạn dạo của bài "Gimme! Gimme! Gimme!", Madonna phải gửi người đại diện của mình tới Stockholm với một lá thư cầu cạnh ABBA đồng ý cho cô mượn nhạc của họ và cũng để bày tỏ cô yêu âm nhạc của họ nhiều như thế nào.[3] Cô giải thích với BBC, "Họ không bao giờ để bất kỳ ai mượn nhạc của mình. Ơn Chúa họ không nói "không". [...] Họ phải nghĩ về điều này, Benny and Björn. Họ nói "có" ngay lập tức đâu".[3] Hai nhạc sĩ của ABBA đồng ý cho phép Madonna mượn nhạc của họ sau khi đạt được một thỏa thuận về bản quyền cho phép họ có được một lượng cổ phiếu lớn về tiền bản quyền tác giả từ doanh số sau này và tần suất phát sóng của ca khúc mới trên sóng phát thanh.[4] Trong một cược phỏng vấn với The Daily Telegraph trong tháng 10 năm 2005, Andersson nhấn mạnh "Gimme! Gimme! Gimme!" là cốt lõi của "Hung Up" và nói đùa rằng đây là ca khúc của Madonna mà ông ưa thích cho tới bây giờ.[4] Ông cũng nói thêm rằng:

"Chúng tôi có rất nhiều lời đề nghị từ phía các nghệ sĩ muốn được sử dụng ca khúc của ABBA nhưng thường thì chúng tôi nói "không". Đây mới chỉ là lần thứ hai chúng tôi cho phép. Lần này chúng tôi nói "có" sở dĩ vì rất ngưỡng mộ Madonna và vẫn luôn như vậy. Cô ấy rất có chí và đã nổi bật được 21 năm. Điều này đâu có bất lợi."[4]

"Hung Up" được ra mắt trong tháng 9 năm 2005 trong một quảng cáo trên truyền hình cho chiếc điện thoại ROKR tương thích với iTunes của Motorola. Trong quảng cáo này, Madonna và các nghệ sĩ khác chen chúc nhau trong một bốt điện thoại.[5] Ngày 17 tháng 10 năm 2005, ca khúc chính thức được ra mắt trong một cuộc trò chuyện trực tiếp dài 10 phút trên sóng phát thanh giữa Ryan Seacrest và Madonna. Ca khúc cũng được nhiều nhà cung cấp dịch vụ điện thoại sử dụng làm nhạc chuông thịnh hành (master ringtone).[5] Bài hát được dùng trong các tập phim của sê-ri truyền hình CSI: MiamiCSI: NY (một phần của CSI: Crime Scene Investigation, tạm dịch: Điều tra hiện trường tội ác) vào ngày 7 và 9 tháng 11 năm 2005.[5] Trong khi quảng cáo cho album mới Confessions on a Dance Floor, Madonna bật cả ca khúc "Hung Up" và đĩa đơn tiếp theo "Sorry" tại các câu lạc bộ đêm khắp New York, nơi cô đóng vai một DJ phối khí lại hai bài hát.[6] Về quyết định của mình về việc phát hành ca khúc mới trên iTunes, Madonna nói:

"Tôi là một nữ doanh nhân. Ngành công nghiệp âm nhạc đã đổi thay. Có đầy rẫy sự cạnh tranh và thị trường tràn ngập bởi các ấn phẩm mới - cái này mới cái kia mới. Anh phải tham gia lực lượng với những công ty và nhãn hiệu khác. Nếu không làm như vậy thì anh là một thằng đần."[7]

Video ca nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
Madonna trong một cảnh quay của Hung up.

Video clip của "Hung Up" được đạo diễn bởi Johan Renck và được quay từ ngày 7 đến 9 tháng 10 năm 2005 tại trung tâm Trocadero, tàu điện ngầm, phố Great Guldford và khu người Hoa tại London, Anh. Trong video này, Madonna đã thực hiện nhiều điệu nhảy điêu luyện và đẹp mắt, mặc dù cô vừa bị gãy mấy chiếc xương sau cú ngã ngựa vài tuần trước đó. Madonna nói: " Khi tôi quay video này, chẳng chiếc xương nào ăn nhập với nhau cả. Nhiều khi chúng làm tôi cảm thấy đau. Chỉ có mấy bài tập trị liệu, thuốc thang và sự quyết tâm của mình mới giúp tôi hoàn thành tốt công việc."[8]

"Hung Up" được đề cử 5 giải MTV Video Music Awards năm 2006 bao gồm các hạng mục Video của năm,Video của nữ nghệ sĩ, Video pop, Video với vũ đạo đẹp nhất và Video có nghệ thuật bố trí thế nhưng không giành được giải nào[9].

  • Đạo diễn: Johan Renck
  • Sản xuất: Lene Bausager, John Winter
  • Đạo diễn hình: Gosta Reiland
  • Biên tập: Johan Söderberg
  • Công ty sản xuất: Black Dog Films

Xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Tiền nhiệm và kế nhiệm xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]
Tiền nhiệm:
"And She Said..." bởi Lucas Prata
Đĩa đơn quán quân bảng xếp hạng Billboard Hot Dance Airplay
12 tháng 11 năm 2005 – 31 tháng 12 năm 2005
Kế nhiệm:
"Don't Forget About Us" bởi Mariah Carey
Tiền nhiệm:
"Cool" bởi Gwen Stefani
Đĩa đơn quán quân bảng xếp hạng Billboard Hot Dance Club Play
19 tháng 11 năm 2005 – 10 tháng 12 năm 2005
Kế nhiệm:
"I've Got a Life (It's the Only Thing That's Mine)" bởi Eurythmics
Tiền nhiệm:
"You Raise Me Up" bởi Westlife
Danh sách đĩa đơn quán quân UK Singles Chart của Anh
13 tháng 11 năm 2005 – 27 tháng 11 năm 2005
Kế nhiệm:
"Stickwitu" bởi Pussycat Dolls
Tiền nhiệm:
"Gold Digger" bởi Kanye West hợp tác với Jamie Foxx
Đĩa đơn quán quân tại Úc
13 tháng 11 năm 2005 – 20 tháng 11 năm 2005
Kế nhiệm:
"My Humps" bởi Black Eyed Peas
Tiền nhiệm:
"Alive" bởi Melissa O'Neil
Đĩa đơn quán quân tại Canada (lần một)
3 tháng 12 năm 2005 – 17 tháng 12 năm 2005
Kế nhiệm:
"Alive" bởi Melissa O'Neil
Tiền nhiệm:
"Alive" bởi Melissa O'Neil
Đĩa đơn quán quân tại Canada (lần hai)
31 tháng 12 năm 2005 – 18 tháng 3 năm 2006
Kế nhiệm:
"Everyday Is Exactly the Same" bởi Nine Inch Nails

Doanh số và chứng nhận

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Úc (ARIA)[58] Bạch kim 70.000^
Bỉ (BEA)[59] Bạch kim 50.000*
Canada (Music Canada)[60] 2× Bạch kim 0*
Pháp (SNEP)[62] Vàng 490,000[61]
Đức (BVMI)[63] 3× Vàng 750.000^
Nhật Bản (RIAJ)[64] Bạch kim 0^
Thụy Điển (GLF)[65] 3× Bạch kim 60.000^
Thụy Sĩ (IFPI)[66] Vàng 20.000^
Anh Quốc (BPI)[67] Bạch kim 600.000^
Hoa Kỳ (RIAA)[69] Bạch kim 1,200,000[68]

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.

Danh sách ca khúc và dạng đĩa

[sửa | sửa mã nguồn]

Đội ngũ sản xuất

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Đồng sáng tác và sản xuất - Madonna, Stuart Price
  • Đồng sáng tác đoạn dạo - Benny Andersson, Björn Ulvaeus
  • Bìa đĩa - Giovanni Bianco
  • Ảnh hóa - Lorenzo Irico (Pixelway NYC)
  • Quản lý - Angela Becker, Guy Oseary
  • Hình - Steven Klein
  • Làm tóc và trang điểm - Andy LeCompte

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Garfield, Simon (20 tháng 11 năm 2005). “Looks good on the dancefloor”. The Guardian. Guardian News and Media Limited. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2009.
  2. ^ Cinquemani, Sal (4 tháng 11 năm 2005). “Madonna – Confessions on a Dance Floor – Review”. Slant Magazine. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2009.
  3. ^ a b c Bones, Susan (18 tháng 10 năm 2005). “Madonna 'begged' Abba for sample”. BBC. BBC News. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2009.
  4. ^ a b c Hastings, Chris (16 tháng 10 năm 2005). “Thank you for the music! How Madonna's new single will give Abba their greatest-ever hit”. The Daily Telegraph. Telegraph Media Group. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2009.
  5. ^ a b c Paoletta, Michael (12 tháng 11 năm 2005). “Dancing Queen”. Billboard (bằng tiếng Anh). New York: Nielsen Business Media, Inc. 117 (46): 64. ISSN 0006-2510. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2009.
  6. ^ Mason, Kerri (27 tháng 10 năm 2005). “Madonna's Young Remixer”. Billboard (bằng tiếng Anh). New York City: Nielsen Business Media, Inc. 117 (42): 96. ISSN 0006-2510. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2009.
  7. ^ Paoletta, Michael (7 tháng 11 năm 2005). “Madonna Confesses”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2009.
  8. ^ "Madonna no longer ‘Hung Up’ on injury". The State.com (28 tháng 2 năm 2006)
  9. ^ Montgomery, James (31 tháng 7 năm 2006). “Shakira, Chili Peppers, Madonna, Panic! Lead List Of Nominees For MTV Video Music Awards”. MTV. MTV Networks Entertainment Group. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2009.
  10. ^ “Australian-charts.com — Madonna — Hung Up (Song)”. Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2009.
  11. ^ a b c d e f g h i j k “Ultratop.be — Madonna – Hung Up (Song)”. Ultratop 50. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2009.
  12. ^ a b c d “allmusic (((Madonna > Charts & Awards > Billboard Singles)))”. Allmusic. Rovi Corporation. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2009.
  13. ^ “Radio Top100 Oficiální – Madonna Hung Up”. International Federation of the Phonographic Industry. IFPIcr.cz. ngày 7 tháng 1 năm 2006. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2009.
  14. ^ Sexton, Paul (ngày 21 tháng 11 năm 2005). “Madonna Dominates U.K. Charts”. Billboard. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2009.
  15. ^ Sexton, Paul (ngày 14 tháng 11 năm 2005). “Madonna, Il Divo Lead U.K. Charts”. Billboard. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2009.
  16. ^ “Lescharts.com — Madonna — Hung Up (Song)”. Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2009.
  17. ^ “Charts.de — Madonna — Hung Up (Suche)” (bằng tiếng Đức). Media Control Charts. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2009.
  18. ^ “Single (track) Top 10 lista: 2005: 45” (bằng tiếng Hungary). Association of Hungarian Record Companies. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2009.
  19. ^ “Irish Top 50 Singles, Week Ending ngày 10 tháng 11 năm 2005”. Irish Recorded Music Association. ngày 10 tháng 11 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2009.
  20. ^ “Charts.org.nz — Madonna — Hung Up (Song)”. Recording Industry Association of New Zealand. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2009.
  21. ^ “Romanian Top 100: ngày 16 tháng 11 năm 2005”. Romanian Top 100. ngày 16 tháng 11 năm 2005. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 2 năm 2006. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2013.
  22. ^ "Official Scottish Singles Sales Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2015.
  23. ^ “Madonan — Artist — Official Charts”. Official Charts Company. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2009.
  24. ^ Hope, Clover (ngày 24 tháng 11 năm 2005). “Brown's 'Run It!' Holds Pace At No. 1”. Billboard. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2009.
  25. ^ “Madonna Chart History: Adult Pop Songs”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2015.
  26. ^ "Madonna Chart History (Adult Contemporary)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2015.
  27. ^ “Hits Neue Jahrtausend Download” (bằng tiếng Đức). Media Control Charts. RTL Channel. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2010.
  28. ^ “Chart of the decade”. BBC Online. Radio 1. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2009.
  29. ^ “Billboard Charts – Decade-end Singles – Dance/Club Play Songs”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
  30. ^ “ARIA Charts – End Of Year Charts – Top 100 Singles 2005”. Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2011.
  31. ^ “Austrian Year-end singles for 2005” (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2010.
  32. ^ “Belgian Flanders Year-end singles chart for 2005” (bằng tiếng Đức). Ultratop 50. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2010.
  33. ^ “Belgian Wallonia Year-end singles chart for 2005” (bằng tiếng Pháp). Ultratop 50. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2010.
  34. ^ “Jaaroverzichten 2005” (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2011.
  35. ^ “French Year-end singles chart for 2005” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2010.
  36. ^ “German Year-end singles for 2005” (bằng tiếng Đức). Media Control Charts. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2010.
  37. ^ “Mahasz Rádiós TOP 100 2005” (bằng tiếng Hungary). Association of Hungarian Record Companies. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2011.
  38. ^ “Irish Year-end singles chart for 2005”. Irish Recorded Music Association. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2010.
  39. ^ “Classifiche annuali 2005 FIMI Nielsen, dominano gli artisti italiani” (bằng tiếng Ý). Federation of the Italian Music Industry. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2011.
  40. ^ “Annual Top 50 Singles Chart 2005”. Recording Industry Association of New Zealand. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2011.
  41. ^ “Spanish Singles Chart 2005” (PDF) (bằng tiếng Tây Ban Nha). Productores de Música de España. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2011.
  42. ^ “Årslista Singlar – År 2005” (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2011.
  43. ^ “Swiss Year-end singles chart for 2005”. Swiss Music Charts. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2010.
  44. ^ “UK Best Selling Singles (1999–2009)” (PDF). British Phonographic Industry. Bản gốc (pdf) lưu trữ ngày 24 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2011.
  45. ^ “ARIA Charts – End Of Year Charts – Top 100 Singles 2006”. Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2011.
  46. ^ “Austrian Year-end singles for 2006” (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2010.
  47. ^ “Belgian Flanders Year-end singles chart for 2006” (bằng tiếng Đức). Ultratop 50. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2010.
  48. ^ “Belgian Wallonia Year-end singles chart for 2006” (bằng tiếng Pháp). Ultratop 50. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2010.
  49. ^ “Jaaroverzichten 2006” (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2011.
  50. ^ “German Year-end singles for 2006” (bằng tiếng Đức). Media Control Charts. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2010.
  51. ^ “Mahasz Rádiós TOP 100 2006” (bằng tiếng Hungary). Association of Hungarian Record Companies. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2011.
  52. ^ “Classifiche: Charts Annunali 2006 FIMI-AC Nielsen” (bằng tiếng Ý). Federation of the Italian Music Industry. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2011.
  53. ^ “Spanish Singles Chart 2006” (PDF) (bằng tiếng Tây Ban Nha). Productores de Música de España. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 30 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2011.
  54. ^ “Årslista Singlar – År 2006” (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2011.
  55. ^ “Swiss Year-end singles chart for 2006”. Swiss Music Charts. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2010.
  56. ^ “UK Top 100 2006” (archive). UK Charts. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2011.
  57. ^ “Hot 100 Songs 2006”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2011.
  58. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2005 Singles” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2015.
  59. ^ “Ultratop − Goud en Platina – singles 2006” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2015.
  60. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Canada – Madonna – Hung Up” (bằng tiếng Anh). Music Canada. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2015.
  61. ^ “Top 100 des singles les plus vendus du 21ème siècle: le récap!”. Charts in France (bằng tiếng Pháp). ngày 20 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2015.
  62. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Pháp – Madonna – Hung Up” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2015.
  63. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Madonna; 'Hung Up')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2015.
  64. ^ Paid music distribution certification for February 2014 (bằng tiếng Nhật). Recording Industry Association of Japan. tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2015. |script-title= không hợp lệ: missing prefix (trợ giúp)
  65. ^ “Guld- och Platinacertifikat − År 2008” (PDF) (bằng tiếng Thụy Điển). IFPI Sweden. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2015.
  66. ^ “The Official Swiss Charts and Music Community: Chứng nhận ('Hung Up')” (bằng tiếng Đức). IFPI Thụy Sĩ. Hung Medien. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2015.
  67. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Anh Quốc – Madonna – Hung Up” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2015. Chọn single trong phần Format. Chọn Bạch kim' ở phần Certification. Nhập Hung Up vào mục "Search BPI Awards" rồi ấn Enter.
  68. ^ Trust, Gary (ngày 30 tháng 4 năm 2010). “Ask Billboard: 'Glee'-ful About Madonna”. Billboard. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2015.
  69. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Hoa Kỳ – Madonna – Hung Up” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2015.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]